Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014

Những thói quen dễ gây ra sỏi thận, sỏi mật

Tại sao đa phần dân văn phòng bị sỏi thận, sỏi mật? Theo các chuyên gia, ngoài sự căng thẳng, bận rộn, 4 thói quen sau đây chính là “ hung thủ”.

Thức ăn giàu protit và chất béo sẽ tăng thêm hàm lượng cholesterol
trong dịch mật, hình thành nên sỏi
1. Không ăn bữa sáng
Nguyên nhân khiến dân văn phòng “lười” ăn sáng có khá nhiều. Có người là do vội đi làm không kịp ăn, có người vì giảm béo, không muốn ăn. Tuy nhiên, thói quen tưởng vô hại này lại là nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh sỏi mật.
Theo chuyên gia sức khỏe, nguy cơ gây ra bệnh sỏi thận do không ăn sáng khá lớn. Điều này là do cơ thể sau khi trải qua một đêm dài nghỉ ngơi, cần bổ sung năng lượng. Túi mật sẽ bài tiết dịch mật vào buổi sáng, chuẩn bị trước cho việc tiêu hóa thức ăn.
 
Nếu không ăn sáng, mật sẽ không có thức ăn để tiêu hóa, dịch mật sẽ ở trong túi mật lâu hơn, thời gian dài như thế, dịch mật sẽ tích tụ trong túi mật và đường ruột, cholesterol từ trong mật tiết ra sẽ dễ hình thành nên sỏi mật.
Kế sách phòng chống: Không nên vì một lý do nào mà bỏ bữa sáng. Ăn bữa sáng cũng không mất nhiều thời gian, cũng không làm cho bạn lên cân, kể cả những bữa sáng đơn giản như sữa, bánh mỳ…thì cũng có tác dụng phòng ngừa bệnh sỏi mật.
2. Không thích uống nước
Không ít dân văn phòng ngại uống nước hoặc có uống thì không đủ lượng. Và đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra sỏi thận.
 
Các chuyên gia chỉ ra rằng, uống ít nước sẽ khiến hệ tiết niệu ít việc, lượng nước tiểu lưu cữu, trở nên đậm đặc, chất đọng lại tăng lên, như thế dễ hình thành nên sỏi thận và sỏi đường tiết niệu.
Kế sách phòng chống: Uống nhiều nước sẽ tăng lượng bài tiết nước tiểu, làm loãng nước tiểu, giảm thấp nồng độ tinh thể trong nước tiểu, rửa đường niệu đạo, có lợi cho phòng chống sỏi thận và làm cho sỏi bài tiết ra ngoài. Vì vậy, kế cả khi không khát, mỗi người mỗi ngày cũng nên uống 2000ml nước trở lên và uống nước lọc là tốt nhất.
3. Không thích vận động
Ít vận động cũng có thể gây sỏi thận. Đặc tính công việc của dân văn phòng là thời gian ngồi khá dài, vận động ít, sau khi tan tầm rất nhiều người cũng không thích vận động.
 
Các chuyên gia chỉ ra, nếu con người ta ít vận động, vừa không có lợi cho việc hấp thụ can-xi, khiến lượng can-xi bài tiết vào nước tiểu tăng lên, gây ra sỏi thận hoặc sỏi đường tiết niệu. Đồng thời, thành bụng trong cơ thể sẽ lỏng lẻo, gây ra sa nội tạng, chèn ép ống mật, làm cho dịch mật không bài tiết được gây ra tích tụ, từ đó hình thành nên sỏi mật.
Kế sách phòng chống: tăng cường vận động, không nên “ngồi chờ” sỏi hình thành. Trong phòng làm việc khoảng 2 tiếng thì nên đứng dậy làm một số động tác thư giãn, đảm bảo một lượng vận động nhất định, thời gian vận động hàng ngày nên là khoảng 30 phút.
4. Ăn quá nhiều dầu mỡ
Những bữa tiệc luôn đi kèm với thịt cá, dầu mỡ…. Ăn quá nhiều chất dầu mỡ chính là nguyên nhân dẫn đến bệnh sỏi thận. Bởi vì thức ăn giàu protit và chất béo sẽ tăng thêm hàm lượng cholesterol trong dịch mật, hình thành nên sỏi.
Kế sách phòng chống: “Quản lý” miệng, hạn chế hàm lượng cholesterol trong thực phẩm, ít ăn hoặc kiêng ăn thực phẩm hàm chứa cholesterol cao,ví dụ như thịt mỡ, nội tạng động vật, trứng cá, gạch cua, lòng đỏ trứng vv.
 
Nên ăn nhiều rau quả tươi và một số thực phẩm có tác dụng giảm thấp cholesterol như: tỏi, hành tây, nấm hương, mộc nhĩ đen...
 

Theo Dân trí

Nhiễm rotavirus: Mối nguy hiểm cho trẻ nhỏ

Rotavirus là loại virút đường ruột phổ biến nhất, thường gây tiêu chảy nặng ở trẻ nhỏ trên toàn thế giới.

Tại Việt Nam, cứ 2 trẻ nhập viện vì tiêu chảy cấp, có một trường hợp là do nhiễm rotavirus.
Rotavirus rất dễ lây nhiễm và lây rất nhanh
Nhiễm rotavirus ở trẻ em chủ yếu qua con đường phân - miệng và tay - miệng. Rotavirus thường được thải ra ngoài theo phân của người bệnh và tồn tại rất lâu ngoài môi trường, virút có thể bám dính ở bàn tay, trên sàn nhà, các đồ vật, vật dụng trong gia đình, đồ chơi của trẻ… nếu phụ huynh không chú ý vệ sinh sạch sẽ có thể là nguồn lây nhiễm bệnh cho trẻ.
Trẻ cũng dễ dàng bị nhiễm bệnh do uống hoặc ăn phải thức ăn bị nhiễm bẩn trong quá trình chế biến, nấu nướng không đảm bảo vệ sinh vì bàn tay người làm bếp bị nhiễm virút do sờ chạm vào các bề mặt, các đồ vật (bàn ghế, đồ chơi, sàn nhà…) bị nhiễm bẩn trước đó. Gần đây, một số nhà khoa học nghi ngờ rotavirus cũng có thể truyền qua không khí vì virút được tìm thấy nhiều trong dịch tiết đường hô hấp của những trẻ bị nhiễm bệnh.
Trẻ nhỏ dễ mắc bệnh
Tiêu chảy cấp do rotavirus là bệnh nhiễm khuẩn dạ dày ruột cấp do virút rota gây nên. Bệnh rất thường gặp ở trẻ em và trẻ nhỏ, đặc biệt là lứa tuổi từ 3 tháng đến 2 tuổi.
 
Trẻ càng nhỏ tuổi thì nguy cơ nhiễm bệnh nặng và phải nhập viện càng cao. Trong 5 năm đầu đời, hầu như không trẻ nào tránh khỏi tiêu chảy cấp do rotavirus.
 
Tại Việt Nam, tiêu chảy do rotavirus thường gặp nhất ở trẻ từ 3 - 17 tháng tuổi; 46% số trường hợp xảy ra ở trẻ nhũ nhi dưới 5 tháng tuổi và 59% ở trẻ 6 - 11 tháng tuổi.
 
Trẻ càng nhỏ tuổi, nguy cơ nhiễm rotavirus càng cao và mắc bệnh càng nặng. Nhiều trường hợp không được điều trị kịp thời đã dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong.
Khi trẻ nhiễm rotavirus sẽ đào thải ra ngoài một lượng siêu vi rất lớn đến 10 ngàn tỷ, nhưng chỉ cần một lượng rất nhỏ khoảng 10 siêu vi là có thể lây nhiễm, gây bệnh cho người. Siêu vi có thể truyền đi một cách dễ dàng qua tay bị nhiễm bẩn.
Dấu hiệu trẻ bị nhiễm rotavirus
Sau khi bị lây nhiễm khoảng 12 giờ đến 4 ngày, trẻ bắt đầu xuất hiện các triệu chứng.
Triệu chứng điển hình sau khi trẻ bị nhiễm rotavirus là nôn ói và tiêu chảy: ói xuất hiện trước tiêu chảy 6 - 12 giờ và có thể kéo dài khoảng 2 - 3 ngày. Trẻ ói rất nhiều vào ngày đầu và giảm bớt khi bắt đầu đi tiêu chảy. Trẻ thường đi tiêu phân lỏng toàn nước, có lúc màu xanh dưa cải, có thể có đàm, nhớt nhưng không có máu.
 
Tiêu chảy ngày càng tăng trong vài ngày, sau đó giảm dần. Tiêu chảy và nôn ói có thể lên đến hơn 20 lần/ngày. Đa số các trẻ sẽ hết tiêu chảy sau 4 – 8 ngày. Tuy nhiên có thể có trẻ vẫn còn tiêu chảy đến 2 tuần dù trẻ đã khỏe, bắt đầu chơi đùa và đòi ăn trở lại.
Một số triệu chứng khác có thể xuất hiện ở trẻ như: sốt vừa phải, đau bụng, có thể có ho và chảy mũi nước.
Vì vừa bị nôn ói và tiêu chảy với số lần nhiều như vậy, trẻ bị nhiễm rotavirus rất dễ bị mất nước, nếu không được chăm sóc thích hợp có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe và tính mạng của trẻ.
Nguyên tắc chăm sóc và biện pháp phòng ngừa
Việc bù nước cho trẻ là nguyên tắc hàng đầu trong điều trị tiêu chảy do rotavirus, ưu tiên hàng đầu là dung dịch muối đường để bổ sung nước và cả chất điện giải (còn gọi là muối khoáng như Na, kali, chlor…) bị mất qua phân và chất nôn ói, dung dịch uống thường sử dụng là dung dịch oresol (nước biển khô).
 
95% các trường hợp tiêu chảy ở trẻ em được điều trị thành công chỉ bằng bù dịch bằng đường uống và cho ăn.
 
Phụ huynh có thể cho trẻ uống các loại dịch uống khác nếu thấy trẻ khó khăn khi uống oresol, các dịch thay thế khác như nước sôi nguội, nước cơm, nước cháo, nước ép trái cây, nước dừa tươi…
Trẻ còn bú mẹ nên cho bú mẹ càng nhiều càng tốt vì sữa mẹ ngoài việc cung cấp đủ lượng nước cho trẻ, sữa mẹ còn là nguồn dinh dưỡng quý giá giúp trẻ chống chọi với bệnh tật và mau lành bệnh.
Rotavirus lây lan nhanh và tồn tại ở xung quanh chúng ta. Đây là loại siêu vi kháng với các chất tẩy rửa thông thường như xà bông, nước javen... Ngoài ra, bệnh tiêu chảy cấp này do siêu vi trùng gây ra, vì vậy kháng sinh không có tác dụng đối với bệnh.
 
Các biện pháp thông thường như rửa tay, bú mẹ, cải thiện vệ sinh môi trường là các biện pháp làm giảm lây truyền các tác nhân gây bệnh tiêu chảy khác nhưng có vẻ không hữu hiệu để phòng ngừa tiêu chảy do rotavirus.
 
Những nghiên cứu cho thấy cách tốt nhất để bảo vệ trẻ nhỏ khỏi tiêu chảy do rotavirus là chủng ngừa bằng vắc-xin. Tổ chức y tế thế giới đã khuyến cáo nên chủng ngừa cho tất cả trẻ nhỏ để phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này.
Theo ThS.BS Đinh Thạc - Sức khỏe & Đời sống

Giảm muối trong bữa ăn tốt cho gan

Gan chịu trách nhiệm trong quá trình trao đổi chất, chuyển hóa các loại thực phẩm bạn ăn thành năng lượng cung cấp cho cơ thể.

Muốn tăng cường sức khỏe cho gan, bạn cần đảm bảo một chế độ ăn uống hợp lý.
Ăn các loại thực phẩm ít chất béo
Bởi vì gan của bạn chịu trách nhiệm về chuyển hóa chất béo, nên ăn các loại thực phẩm ít chất béo có thể giúp bảo tồn chức năng gan và làm giảm sự phân hủy các protein quý.
 
Tuy nhiên, bạn vẫn nên tiêu thụ một số chất béo nhất định, bởi chúng là một nguồn quan trọng của các axit béo thiết yếu, tạo calo và chất dinh dưỡng khác.
 
Giảm muối trong bữa ăn tốt cho gan
 
Giảm muối trong khẩu phần ăn
Những người có bệnh gan hoặc thận có thể dẫn tới phù nề do bị giữ nước, và tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu thông qua hệ thống mạch máu. Do đó, cần hạn chế muối trong chế độ ăn uống và thậm chí cả từ các loại thực phẩm tự nhiên có hàm lượng muối cao để giảm phù nề và giảm nguy cơ về tim mạch.
Hạn chế protein
Protein trong chế độ ăn uống của bạn là quan trọng để duy trì cấu trúc của mô, cơ quan và hệ thống miễn dịch. Thận trong quá trình trao đổi chất có vai trò tách các chất thải từ máu, giữ lại các protein để phân phối cho các cơ quan và các mô.
 
Tổn thương gan hoặc suy giảm chức năng gan sẽ gây khó khăn cho việc tiêu thụ các protein này, không lọc sạch hết được các chất độc hại, gây bệnh cho cơ thể. Do đó cần cung cấp một lượng protein vừa phải trong khẩu phần ăn hàng ngày của bạn tránh gây gánh nặng cho gan.
Theo Trần Hoài - Lao động

Trẻ đau bụng bất thường: Coi chừng viêm ruột thừa

Các bậc cha mẹ thường hay chủ quan khi thấy trẻ đau bụng bất thường. Điều này hết sức nguy hiểm, có thể gây tử vong nếu không phát hiện sớm

Các bậc cha mẹ thường hay chủ quan khi thấy trẻ đau bụng bất thường. Điều này hết sức nguy hiểm.
 
Nếu trẻ bị đau bụng ngoại khoa như viêm tắc ruột, viêm ruột thừa mà không được phát hiện sớm, điều trị  dễ dẫn tới biến chứng nguy hiểm, thậm chí tử vong. Một trong những nguyên nhân khiến trẻ bị đau bụng mà dễ bị bỏ qua là viêm ruột thừa…
 
Ruột thừa (ruột dư) là một đoạn ruột hẹp, kín, tận cùng, dài khoảng vài centimet và bám dính vào manh tràng (đoạn đầu tiên của ruột già). Lớp lót bên trong lòng ruột thừa tiết ra ít chất nhầy và chảy vào manh tràng.
 
Thành của ruột thừa chứa mô bạch huyết, là một phần của hệ miễn dịch sản xuất kháng thể. Giống như những đoạn còn lại của đại tràng (ruột già) thì thành của ruột thừa cũng có chứa lớp cơ nhưng lớp cơ này phát triển kém. Khi hoạt động mở của chiếc túi cùng này bị cản trở, ruột thừa sưng lên và có thể dễ bị nhiễm khuẩn bởi vi khuẩn.
 
Ruột thừa bị viêm chính là do lỗ thông giữa ruột thừa và manh tràng bị tắc nghẽn. Sau khi hiện tượng tắc nghẽn xảy ra, các vi khuẩn bình thường thường trú trong lòng ruột thừa bắt đầu xâm lấn vào thành ruột thừa.
 
Cơ thể đáp ứng với hiện tượng xâm lấn này bằng cách tấn công các vi khuẩn. Hiện tượng tấn công các vi khuẩn đó được gọi là viêm. Nếu hiện tượng viêm và nhiễm khuẩn lan rộng đến thành ruột thừa thì ruột thừa sẽ bị vỡ ra. Sau khi ruột thừa vỡ, nhiễm khuẩn sẽ lan rộng vào trong ổ bụng.
 
Tuy nhiên hiện tượng nhiễm khuẩn này thường giới hạn thành một vùng nhỏ xung quanh ruột thừa được gọi là áp xe quanh ruột thừa. Nếu ruột thừa bị nhiễm khuẩn không được cắt bỏ, nó có thể vỡ và truyền vi khuẩn đi, gây nhiễm khuẩn khắp vùng bụng, có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Biểu hiện viêm ruột thừa
Đối với trẻ nhỏ, dấu hiệu nhân biết viêm ruột thừa khá đặc trưng: đau bụng. Trẻ kêu đau bụng tự nhiên, lúc đầu có thể đau vùng thượng vị hay quanh rốn, nhưng sau đau khu trú ở vùng hố chậu phải, đau âm ỉ. Trẻ buồn nôn và nôn.
 
 Ở trẻ em có khi thấy đi tiêu lỏng hay bị tiêu chảy. Sốt nhẹ khoảng 37,5o - 38,5oc; trẻ sẽ bị sốt cao khi ruột thừa sắp vỡ hoặc đã vỡ. Môi khô, lưỡi bẩn, hơi thở hôi đó là trẻ bị đau bụng vùng xung quanh rốn, sốt nhẹ, không muốn ăn, buồn nôn, nôn. Bụng trẻ trương cứng.
 
 Do chủ quan nên nhiều bậc cha mẹ tự chẩn đoán bệnh cho con dẫn tới tình trạng ruột thừa bị vỡ, gây những biến chứng khôn lường.
 
Biến chứng do viêm ruột thừa
- Vỡ ruột thừa: Biến chứng này  có thể gây ra áp xe quanh ruột thừa hoặc nặng hơn là viêm phúc mạc lan tỏa.
- Tắc ruột: Biến chứng này ít gặp hơn. Tắc ruột xuất hiện khi hiện tượng viêm xung quanh ruột thừa làm cho cơ của thành ruột ngưng hoạt động, ngăn cản không cho các thành phần bên trong lòng ruột được đẩy đi.
- Nhiễm khuẩn huyết: Là hiện tượng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn từ ruột thừa vào dòng máu và đi khắp cơ thể. Đây là một biến chứng nguy hiểm, có thể đe dọa tính mạng.
Không có cách nào để ngăn ngừa viêm ruột thừa, nhưng với các phương pháp kiểm tra và xét nghiệm hiện đại hiện nay, cùng với kháng sinh, hầu hết các trường hợp bệnh viêm ruột thừa có thể được xác định và điều trị mà không gây biến chứng. Trẻ càng nhỏ, viêm ruột thừa càng nguy hiểm.
 
Hiện nay, mổ viêm ruột thừa là một phẫu thuật rất đơn giản. Đặc biệt với phương pháp mổ nội soi, khả năng hồi phục sau mổ của bệnh nhân rất nhanh, đảm bảo thẩm mỹ và tránh được những biến chứng sau mổ.
 
Các bác sĩ khuyến cáo, viêm ruột thừa không thể phòng nên việc phát hiện sớm để giải quyết kịp thời trước khi ruột thừa vỡ là rất quan trọng, đặc biệt với trẻ nhỏ. Vì vậy khi thấy trẻ có dấu hiệu đau bụng nhói ở vùng quanh rốn, hãy đưa trẻ tới bệnh viện để được bác sĩ khám, chẩn đoán và can thiệp kịp thời.   
 
Theo BS Nguyễn Thanh Lâm - Sức khỏe & Đời sống

Nuốt kẹo cao su có hại không?

Phần lớn chúng ta rất sợ nuốt nhầm kẹo cao su vì cho rằng điều đó sẽ dẫn đến đau ruột thừa hay viêm đại tràng.

Bã kẹo cao su không gây nguy hiểm như nhiều người tưởng.
 
Thực ra, nuốt kẹo cao su không bao giờ gây ra các bệnh trên, vì đó chỉ là lời đồn đại. Dĩ nhiên, nó có thể gây khó chịu như đầy hơi, chướng bụng, nhưng chẳng có gì nguy hiểm.
 
Thành phần kẹo cao su gồm đường, mùi hương, chất keo đàn hồi..., đều có thể phân hủy dưới tác dụng của dịch vị để bài tiết ra ngoài.
Với trẻ con, kẹo cao su to quá có thể làm nghẹt thở nếu lọt vào thực quản. Trong trường hợp hiếm hoi, nó có thể làm nghẹt ruột.
Theo M.An - Tuổi trẻ Cuối tuần/Ca m'intéresse

Coi chừng...chứng ợ hơi

Sau khi ăn, một số người thường bị ợ và cảm thấy “thỏa mãn” vì nhẹ bụng hơn. Tuy nhiên, chứng ợ hơi lại tiềm ẩn một căn bệnh nguy hiểm.

Thực quản là một ống thẳng được tạo thành từ nhiều lớp mô và cơ, có thể giãn nở, tạo những sóng nhu động đưa thức ăn từ miệng xuống dạ dày.
Ở đáy thực quản có một cơ vòng gọi là cơ vòng thực quản dưới, hoạt động như một cái van: khi nuốt thức ăn, cơ vòng này sẽ mở ra để thức ăn đi xuống dạ dày, sau đó nó sẽ đóng lại để ngăn không cho các chất chứa trong dạ dày trào ngược lên.
Khi cơ vòng này hoạt động không tốt thì acid và thức ăn từ dạ dày sẽ trào ngược lên thực quản.
Chứng ợ nóng là tình trạng acid trong dạ dày bị trào ngược lên thực quản và vì thực quản không có lớp màng bảo vệ như dạ dày nên bị acid làm tổn thương, gây ra cảm giác đau rát.
Đây cũng là dấu hiệu của bệnh trào ngược dạ dày thực quản hay GERD (gastro esophageal reflux disease). Nếu triệu chứng này chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra và chỉ kéo dài trong thời gian ngắn thì không phải là vấn đề nghiêm trọng.
Ngoài ra, một số trường hợp sau sẽ dẫn đến tình trạng cơ vòng hoạt động không tốt khiến cho acid trong dạ dày bị trào ngược lên thực quản cũng gây ra ợ nóng, như đang mang thai, thoát vị khe thực quản, bị dư cân, ăn quá nhiều hoặc nằm ngay sau khi ăn, và mặc quần áo chật gây chèn ép lên dạ dày.
Bên cạnh đó, một số thói quen ăn uống cũng gây nên tình trạng ợ nóng như: thực phẩm chứa nhiều dầu mỡ, nhiều cà chua, hay thức ăn có vị cay, vị chua.
Một số thực phẩm khác nữa là cà phê, rượu, sôcôla, đường, bạc hà và kể cả trường hợp sau một bữa ăn thịnh soạn hay ăn trước giờ đi ngủ.
Triệu chứng này cũng có khi là do uống một loại thuốc nào đó như Aspirin hay khi bạn hút thuốc.
Đối với các thai phụ, chứng ợ nóng thường gặp trong các tháng cuối thai kỳ do trọng lượng của em bé chèn ép vào dạ dày làm cơ vòng thực quản mở ra khiến acid trào ngược lên thực quản.
Tuy nhiên, khi có những dấu hiệu nuốt khó, nuốt đau, sụt cân không giải thích được, đau ngực, nuốt nghẹn hay chảy máu tiêu hóa (ói ra máu, đi cầu phân đen) kèm theo chứng ợ nóng là những triệu chứng nguy hiểm.
Nếu không chữa trị dứt điểm thì chứng ợ nóng hoàn toàn có khả năng trở thành chứng ợ nóng mãn tính hay còn gọi là chứng trào ngược thực quản dạ dày (GERD).
Từ chứng GERD có thể dẫn đến những tình trạng nguy hiểm khác nặng hơn. Như việc ợ nóng liên tục sẽ gây viêm thực quản với nhiều mức độ khác nhau, loét thực quản, hẹp thực quản (do tổn thương viêm kéo dài hình thành sẹo co kéo gây chit hẹp lòng thực quản).
Một số ít có thể bị thực quản Barrett’s (một dạng biến đổi tế bào ở thực quản thành tế bào bình thường khác nhưng chỉ có ở ruột) có thể gây ung thư thực quản về sau trong một số trường hợp.
Acid do trào ngược kéo dài có thể kích thích họng (gây viêm họng, viêm thanh quản làm khàn tiếng kéo dài), bị hít vào phổi gây viêm phổi hít. Một số trường hợp có thể có triệu chứng của bệnh suyễn.
Và nếu tình trạng này kéo dài quá lâu, thậm chí, có thể gây tổn thương phổi vĩnh viễn như xơ hóa phổi hoặc dãn phế quản nếu không được điều trị.
Để giảm chứng ợ nóng, các bác sĩ sẽ tiến hành kiểm tra để xem liệu bệnh nhân có phải loét dạ dày hay các bệnh khác gây ra triệu chứng ợ nóng hay không bằng phương pháp chụp X-quang có cản quang để khảo sát thực quản, dạ dày, ruột non; nội soi thực quản dạ dày để chẩn đoán bệnh, đánh giá mức độ nhằm đưa ra xử trí thích hợp. Có thể hạn chế chứng ợ nóng bằng những cách sau:
- Chia nhỏ các cữ ăn chính thành nhiều cữ nhỏ và ăn chậm
- Tránh mặc quần áo quá chật
- Giảm lượng cân nặng thừa
- Nâng cao vai và đầu so với dạ dày khi nằm ngủ
- Tránh các chất tạo ra quá nhiều acid gây tình trạng nóng rát dạ dày như thức ăn cay, nhiều dầu mỡ, cà phê, rượu, cà chua, sôcôla, ...
- Ngừng hút thuốc
- Nhai kẹo cao su hoặc ngậm thuốc dạng kẹo (giúp kích thích tiết nước bọt nhiều hơn, góp phần làm giảm acid ở thực quản trào lên từ dạ dày).
Nếu các biện pháp đơn giản trên không làm giảm bớt tình trạng nóng rát thực quản, bác sĩ sẽ kê toa thuốc cho bạn để làm giảm lượng acid trong dạ dày, giúp làm trống dạ dày. Khi uống thuốc điều trị bạn đừng đi đâu trong vòng 15 phút.
Theo BS. Trần Hiền Trung - Doanh nhân Sài Gòn

Ăn thực phẩm “bẩn” dễ mắc viêm gan

Theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân mắc bệnh này là do người dân ăn uống phải thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm.

Theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân mắc bệnh này là do người dân ăn uống phải thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm.
Viêm gan là chứng bệnh viêm nhiễm ở gan, hầu hết do virus viêm gan gây ra. Theo thống kê, hiện có năm loại virus viêm gan chính là A, B, C, D và E. Trong đó, viêm gan A và E thường do ăn uống phải thực phẩm và nước “bẩn”; viêm gan B, C, D thường xảy ra sau khi tiếp xúc với các dịch tiết cơ thể bị nhiễm bệnh chẳng hạn như truyền máu hoặc các sản phẩm từ máu của người nhiễm bệnh và các thủ thuật y tế có sử dụng dụng cụ nhiễm khuẩn.

Ảnh minh họa
Việc lây truyền bệnh viêm gan B đang là nỗi lo thường trực của rất nhiều người. Bệnh này có thể lây truyền từ mẹ sang con, giữa các thành viên trong gia đình và quan hệ tình dục.
 
Virus viêm gan B và C gây bệnh gan mãn tính cho hàng trăm triệu người và là nguyên nhân phổ biến nhất gây bệnh xơ gan, ung thư gan.
 
Mặc dù vậy, viêm gan B lại là một bệnh có thể phòng ngừa. Việc phòng bệnh bắt đầu từ lúc mới sinh bằng một loại vaccine hiệu quả cao và an toàn để phá vỡ chuỗi lây nhiễm là rất quan trọng. Virus này có khả năng lây nhiễm cao và có thể dễ dàng lây sang trẻ sơ sinh sau khi tiếp xúc với máu của mẹ trong quá trình sinh nở.
 
Vaccine có thể ngăn ngừa lây nhiễm thậm chí sau khi bị phơi nhiễm với virus, tuy nhiên, theo ý kiến các chuyên gia thì trẻ sơ sinh cần phải được tiêm chủng trong vòng 24 giờ sau sinh và 2 liều vaccine theo đúng lịch.
Bệnh viêm gan B mãn tính có thể điều trị bằng thuốc kháng virus nhưng việc điều trị sẽ rất tốn kém và không phải quốc gia nào cũng có thể tiếp cận điều trị được. Đối với viêm gan C cũng là một nhiễm trùng virus ở gan dễ lây lân nhất là ở nhóm đối tượng tiêm chích ma túy, tuy nhiên chưa có vaccine để dự phòng.
Vì vậy, các chuyên gia y tế khuyến cáo, chỉ có thể giảm nguy cơ nhiễm viêm gan C bằng cách tránh tiêm chích không an toàn, không sử dụng các sản phẩm máu chưa được sàng lọc.
Ngoài ra, một lối sống lành mạnh, không rượu bia, thuốc lá hoặc lạm dụng các chất kích thích… là lời khuyên cần thiết cho bệnh nhân mắc bệnh về gan.
Theo Đông Bích - Lao động

Đầy hơi, trướng bụng: Bệnh gì?

Đầy hơi, trướng bụng là các triệu chứng thuộc về đường tiêu hóa, tuy không nguy hiểm nhưng gây khó chịu cho người bệnh.

Hiện tượng đầy hơi, trướng bụng là do lượng hơi tăng lên trong đường tiêu hóa, do rối loạn chuyển hóa các chất tinh bột hoặc do sự rối loạn lên men của vi sinh vật mà chủ yếu là họ vi khuẩn đường ruột.
 
Tắc đường mật do sỏi gây đầy hơi, trướng bụng

Vì sao đầy hơi, trướng bụng?
Có nhiều nguyên nhân gây đầy hơi, trướng bụng:
- Do ăn nhiều chất tinh bột mà cơ thể không đủ hệ thống men để chuyển hóa hết. Ăn uống quá nhanh, nhai không kỹ, nuốt vội vàng (khi uống nước dễ nuốt cả hơi vào dạ dày); ăn nhiều chất béo, gia vị, chất kích thích (rượu, bia, cà phê, thuốc lá).
 
Có một số thức ăn hay gia vị khi ăn vào dạ dày tạo nên một phản xạ gây co thắt lỗ thực quản dưới dễ gây nên ợ hơi (hành, tỏi...) hoặc ăn xong đã vội vàng đi nằm nghỉ ngay.
 
- Do rối loạn vận động nhu động ống tiêu hóa (dạ dày, ruột) làm cho dạ dày lúc nào cũng đầy thức ăn và thức ăn xuống ruột chậm gây cho việc tiêu hóa thức ăn gặp khó khăn hoặc do rối loạn bài tiết dịch mật (viêm, tắc đường dẫn mật...).
 
Bệnh trào ngược thực quản ngoài đầy hơi, trướng bụng còn gây nóng rát phía sau xương ức, ợ nóng, ợ hơi, ợ ra cả nước trong.
- Do rối loạn hệ thống vi khuẩn chí trong đường tiêu hóa (loạn khuẩn) làm cho thức ăn không đủ men để chuyển hóa thức ăn gây ứ đọng, lên men và sinh hơi.
- Do bệnh thuộc đường tiêu hóa như bệnh về dạ dày (viêm, loét dạ dày - tá tràng, ung thư dạ dày...); bệnh viêm đại tràng co thắt (hội chứng viêm đại tràng kích thích); bệnh giảm nhu động ruột do gây đầy hơi, trướng bụng bởi vi khuẩn lên men tinh bột tồn tại lâu ngày trong lòng đại tràng; do ứ phân lâu ngày như trong bệnh táo bón hoặc sau một số phẫu thuật về đường tiêu hóa như phẫu thuật dạ dày, đại tràng...
- Do rối loạn hấp thu: ở trẻ em những trường hợp đau bụng không tìm thấy nguyên nhân khác thì có tới 40% là do rối loạn hấp thu sữa.
- Do bệnh thuộc về hệ thống tâm thần - thần kinh: những người hay lo âu, thần kinh căng thẳng, gặp nhiều stress cũng có thể gây đầy hơi, trướng bụng.
Ngoài ra chứng đầy hơi, trướng bụng còn có thể do người bệnh dùng một số thuốc làm ảnh hưởng đến chức năng sinh lý bình thường của hệ tiêu hóa (dạ dày, ruột), ví dụ như dùng thuốc trong bệnh suy tuyến giáp trạng, trong bệnh tăng huyết áp hoặc thuốc dùng chữa bệnh trầm cảm...
Đầy hơi, trướng bụng có biểu hiện chính như thế nào?
Những người bị bệnh đầy hơi, trướng bụng thì hơi được sinh ra trong quá trình chuyển hóa thức ăn không ra ngoài theo đường hậu môn (trung tiện) mà lại đi ngược lên thực quản do cơ thắt thực quản bị giãn ra và được đưa ra ngoài bằng đường miệng bởi  triệu chứng ợ. Triệu chứng chính là đầy hơi, trướng bụng, ậm ạch khó chịu.
 
Những người có hội chứng dạ dày thì ngoài đầy hơi, trướng bụng còn có ợ hơi, ợ chua, đau bụng âm ỉ, có lúc buồn nôn hoặc nôn (do viêm chít hẹp môn vị gây ứ đọng), phân lúc lỏng, lúc đặc hoặc có khi táo bón.
 
Bụng trướng, gõ rất trong và trung tiện nhiều lần (ở người bình thường hơi chứa trong ruột có khoảng 200ml và được  đưa  ra ngoài bình quân khoảng từ 14 - 25 lần trong một ngày đêm theo đường hậu môn do trung tiện).
Nên làm gì khi bị bệnh đầy hơi, trướng bụng? 
Khi bị đầy hơi, trướng bụng cần thiết phải đi khám bệnh để  xác định nguyên nhân. Ăn uống đóng vai trò khá quan trọng. Cần ăn chậm, nhai kỹ, không nuốt vội vàng, không ăn no quá. Một số loại thức ăn có khả năng gây đầy hơi thì nên tránh không ăn (những thức ăn này cũng có sự khác nhau ở cơ địa từng người).
 
Nên ăn những thức ăn dễ tiêu, hạn chế ăn thức ăn chua, cay, các chất kích thích như cà phê, rượu, bia, thuốc lá. Nên hạn chế ăn kẹo, bánh ngọt. Nên ăn nhiều rau xanh như rau khoai lang, rau mồng tơi, rau đay, rau muống.
 
Vệ sinh răng miệng hàng ngày tránh để bám các chất cặn bã ở chân răng, trong khoang miệng. Ăn xong chưa vội đi nằm ngay hoặc ngồi lâu mà nên đi lại nhẹ nhàng. Ngoài bữa ăn có thể dùng tay xoa bóp bụng (mát xa) để làm tăng nhu động của dạ dày, ruột giúp cho việc tiêu hóa thức ăn tốt hơn, tránh ứ đọng thức ăn nhiều ngày.
 
Cần có chế độ tập thể dục nhẹ nhàng để làm tăng nhu động ruột một cách hợp sinh lý bình thường như đi bộ, chơi cầu lông, tập hít thở để cơ hoành vận động làm tăng nhu động của dạ dày và ruột. Đi bộ cũng là một hình thức thư giãn loại bỏ stress.
Theo PGS. TS Bùi Khắc Hậu - Sức Khỏe & Đời Sống

Bệnh sán lá ruột gây liệt ruột

Tôi 42 tuổi, từ trước khỏe mạnh, nhưng khoảng một tháng nay hay đau bụng, buồn nôn, chán ăn, đi khám bác sĩ nghi là bị bệnh sán lá ruột.

 Xin hỏi nguyên nhân của bệnh?
(Trần Thị Hà - Nghệ An)
Trả lời:
 
Sán lá ruột là một loại ký sinh thường gặp ở người và lợn, có tên khoa học là Fasciolopsis buski.
 
Trứng sán được thải theo phân ra ngoài, gặp nước nở thành các ấu trùng bơi tự do rồi xâm nhập và phát triển trong cơ thể ốc.
 
Từ ốc, các vĩ ấu trùng thoát ra và đóng kén trên các cây rau cỏ mọc dưới nước. Người mắc bệnh khi ăn sống các rau này.
Vào ruột, sán lá phát triển trong khoảng 3 tháng thành sán trưởng thành, ký sinh trong ruột non, bám vào niêm mạc ruột hoặc lẩn trong dịch nhầy với số lượng từ vài con đến vài nghìn con.
Biểu hiện nhiễm sán: chán ăn, buồn nôn, đau thượng vị và tiêu chảy, đôi khi xen kẽ với táo bón. Có thể bị cổ trướng, phù mặt, phù chân, tắc ruột, liệt ruột, gầy mòn suy kiệt.
Phòng bệnh: ăn chín uống sôi, không ăn rau sống, không uống nước lã. Bạn nên đi khám, làm các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời.

Theo BS Đào Thị Thinh - Sức khỏe & Đời sống

4 cách đơn giản phòng bệnh sỏi mật

Sỏi mật là bệnh không xa lạ. Vì những lý do rất đặc thù mà tỷ lệ sỏi mật ở người Việt và một số quốc gia vùng Nam Á rất cao.

Sau mổ, việc tái phát sỏi rất dễ xảy ra. Có người mổ đến lần thứ 2, thứ 3 mà vẫn còn phải điều trị vì sỏi mật.
Mổ đến 3 lần không hết
Bà T. là một phụ nữ nông dân ở vùng thôn quê. Bà phát hiện ra sỏi mật lần đầu tiên cách đây 8 năm, khi ấy bà 56 tuổi. Bà vẫn còn nhớ rất rõ cái cảm giác đau ngày đầu tiên bị bệnh.
 
Một cảm giác đau không thể nào quên. Nó đau đến thấu bụng, tại vùng hạ sườn phải. Càng vận động, càng đau. Càng gắng sức càng đau.
 
Bà cứ nằm nghiêng sang trái thì bớt đau, nhưng nghiêng sang phải thì đau dữ dội. Ban đầu bà chỉ nghĩ là đau bụng do đau dạ dày nên bà chỉ điều trị qua loa tại nhà. Ai dè, một thời gian sau, bà bị vàng da trông thấy. Tá hoả, bà đi khám thì được chẩn đoán là sỏi mật tại ống mật chủ.
 
Bà được các bác sĩ Bệnh viện Bạch Mai chỉ định phẫu thuật lấy sỏi. Sau phẫu thuật lần thứ nhất, bà hoàn toàn bình phục và ra viện.
 
Tưởng thế là cơn bệnh tật đã qua, bà rất yên tâm. Nhưng không ngờ bệnh tật lại tiếp tục đeo bám bà. Bốn năm sau đó, tức là thời điểm bà 60 tuổi, bà lại có biểu hiện đau như cũ. Vẫn đau bên sườn phải, vẫn thi thoảng bị đi ngoài phân nát, vẫn cứ đi lại vận động nhiều thì đau.
 
Biết căn bệnh cũ, bà đi khám và phát hiện ra rằng bà đang bị sỏi mật tái phát, tại ống mật chủ. Lần này bà chuyển sang Bệnh viện Xanh Pôn (Hà Nội). Bà cũng được chỉ định mổ lấy sỏi qua nội soi. Sau phẫu thuật, không có gì đáng chú ý vì thời gian hồi phục của bà khá nhanh. Bà quay trở lại cuộc sống bình thường.
 
Sau lần phẫu thuật thứ hai này, bà cầu mong không phải gặp lại căn bệnh này nữa. Nhưng cách đây vài tuần, bà lại bị đau bụng lại. Trớ trêu thay, biểu hiện bệnh lại y như cũ, không có gì thay đổi cả. Lần này, bà quyết định khám và điều trị tại Bệnh viện 103 (Học viện Quân y, Hà Nội).
 
Không ngoài dự đoán, bà lại bị sỏi ống mật chủ tái phát. Bà ngán ngẩm, đến mổ lần thứ 3 mà vẫn chưa hết sỏi.
 Vị trí sỏi mật
Sỏi mật là gì?
Sỏi mật là tình trạng xuất hiện một viên sỏi theo đúng nghĩa đen trong lòng đường mật, gây ứ trệ và tắc nghẽn sự lưu thông mật.
Có hai tác hại cơ bản trong bệnh sỏi mật. Thứ nhất là sự ứ trệ mật làm cho mật không xuống ruột đầy đủ để tiêu hoá thức ăn. Chúng ta cần phải nhớ là không có mật thì chúng ta không thể tiêu hoá thức ăn hoàn hảo được.
 
Có tới trên 40% chất béo trong thức ăn được tiêu hoá và hấp thu nhờ mật. Và 100% chất béo được tiêu hoá là do mật “khơi mào”. Thế nên sự ứ đọng dịch mật thực chẳng khác gì làm cho hệ tiêu hoá của chúng ta kém đi, “ăn gì ra nấy”.
Thứ hai, sự tắc nghẽn dịch mật trong lòng ống mật chủ làm ứ mật theo chiều hướng giật lùi. Mật bị ứ lại quá nhiều, nó gây ứ lại trở về vùng đã sản xuất ra nó, làm căng giãn đường mật trong gan và túi mật. Căng giãn quá mức thì gây đau. Đau đến mức có thể làm cho mặt mày tái mét, lăn lộn từ giường xuống đất.
Một điều cần phải chú ý nữa khi điều trị, đặc biệt với các nhà ngoại khoa, là chuyện sỏi mật tái phát. Chúng ta đừng nghĩ rằng các bác sĩ làm sỏi mật tái phát để lại được mổ. Đây là một biến cố ngoài ý muốn.
 
Thực tế, các nhà phẫu thuật chỉ can thiệp được chuyện loại bỏ sỏi mật trong ống mật chủ mà không thể có biện pháp mổ xẻ nào có thể ngăn được sỏi tát phát.
 
Một khi sỏi trong gan vẫn còn và một khi người bệnh không có sự thay đổi thói quen sống thì chúng ta khó có thể nói lời tạm biệt sỏi.
Làm thế nào tránh được phiền toái?
Thứ nhất, người bệnh cần hạn chế ăn những thực phẩm giàu cholesterol vì cholesterol là chất dễ kết tinh nhất trong dịch mật. Nếu chất này quá nhiều, các axit mật không đủ sức hoà tan thì nó sẽ kết tinh và đọng lại thành sỏi mật. Hầu như các sỏi đều được hình thành từ các cặn sỏi là cholesterol này.
 
Chuyện ăn bao nhiêu cholesterol là đủ thì không có một ước lượng quy chuẩn nào cho người bị sỏi. Nhưng có một điều khuyên là không nên ăn những thực phẩm giàu chất này.
 
Các thực phẩm cần hạn chế là lòng đỏ trứng gà, phủ tạng động vật như tim, gan, óc... Một tuần không nên ăn quá 3 quả trứng và không quá 1 quả tim.
Thứ hai, cần tăng vận động cho đường mật để tăng tống sỏi. Các thực phẩm làm tăng vận động mật là các thực phẩm làm tăng vận động cơ đường mật và nhu động ruột. Sữa, gói thuốc bột MgSO4, rau quả là những thứ có tác động làm tăng vận động đường mật rõ rệt. Hiệu quả cuối cùng là làm mật ra trơn tru và giảm lắng đọng. Lời khuyên là bổ sung nhiều rau quả vào chế độ ăn, tối thiểu 500g rau một ngày. Nếu bạn không thích ăn rau thì cũng nên thay đổi.
Thứ ba, cần tăng thêm liều thuốc vận động cho cơ thể. Vận động làm tăng hoạt động cơ, làm tăng nhu động mật, làm giảm sự ứ trệ. Nó rất có hiệu quả làm mạnh mẽ sức khoẻ hệ tiêu hoá và giảm hẳn nguy cơ sỏi mật tái phát.
 
Thực hiện phương pháp vận động phù hợp theo lứa tuổi là điều có lợi nhất. Các môn thể thao như đi bộ, chạy chậm, tập dưỡng sinh là những môn thể thao tốt với mọi người ở mọi lứa tuổi.
 
Nếu có thể, buổi sáng bạn vận động 30 phút, buổi chiều vận động 30 phút. Như thế sẽ tốt hơn cho hệ tiêu hoá. Nên nhớ là không vận động quá nặng với sức khoẻ thể lực, điều đó có hại hơn có lợi.
Thứ tư, chúng ta cần duy trì đủ 3 bữa/ngày dù có vội. Vì mật được tiết ra liên tục, nếu chúng ta ăn đủ 3 bữa/ngày thì sẽ không có cơ hội cho mật lắng đọng. Làm như thế, chúng ta sẽ giảm hẳn nguy cơ sỏi mật tái phát. Đừng nhịn ăn sáng để đến quá trưa ăn một thể. Điều này có nhiều tai hại hơn chúng ta tưởng. 
Theo BS Nguyễn Khánh Trang - Sức khỏe & Đời sống

Người bị bệnh dạ dày không dùng trà nấm thủy sâm

Người bình thường cũng không nên dùng nhiều vào buổi sáng vì dễ gây viêm loét dạ dày...

Loại trà này chứa một lượng cao chất đạm mà cơ thể có thể hấp thụ một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, do khi nuôi thủy sâm vì có quá trình lên men nên người có bệnh lý dạ dày không nên dùng.
Người bình thường cũng không nên dùng nhiều vào buổi sáng vì dễ gây viêm loét dạ dày...
Nấm trà có thể kích thích nhiều siêu vi khuẩn phân hóa thành các chất dinh dưỡng hữu ích cho con người đào thải những chất độc ra khỏi cơ thể bằng con đường bài tiết.
Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã tìm được thành phần hóa học của thủy sâm, chủ yếu có các vitamin nhóm B như B1, B2, B3, B6, B12... có tác dụng tăng cường hệ thống miễn dịch, chống lão hóa, xơ vữa động mạch, chống béo phì, tăng cường trí nhớ.
Các axit amin có tác dụng chống lão hóa, sản xuất hormon sinh trưởng. Một số axit folic, glucoronic, cabonic, lactic, usnic... có tác dụng ngăn ngừa xơ vữa động mạch, chống loãng xương, giải độc, ngăn ngừa bệnh đường tiêu hóa, ức chế virus.
 
Nhờ có các thành phần hóa học như vậy mà thủy sâm có thể chữa và ngăn ngừa một số bệnh như cao huyết áp, đau mỏi xương khớp, yếu sinh lý, mất ngủ, các bệnh về tiêu hóa, chống ung thư, chống lão hóa, làm sáng mắt, trị sạm da và tác dụng làm cường tráng cơ thể.
Thủy sâm tốt nhưng nó cũng có những hạn chế nhất định. Khi nuôi thủy sâm vì có quá trình lên men nên người có bệnh lý dạ dày không nên dùng. Người bình thường cũng không nên dùng nhiều vào buổi sáng vì dễ gây viêm loét dạ dày.
Do tính chất của nuôi thủy sâm là dùng đường nên những người có vấn đề về đường huyết cần lưu ý không tự ý dùng. Vì vậy, nếu khi sử dụng cảm thấy vấn đề khác lạ thì nên dùng ngay và kiểm tra tại bệnh viện.
 
Những người có thai, trẻ em dưới 2 tuổi và phụ nữ đang cho con bú không được dùng. Cách dùng: Uống sau mỗi bữa ăn, mỗi lần 100ml, một ngày uống 2 lần.
Thủy sâm là một loại thức uống bổ dưỡng được lên men trong dung dịch trà đường bởi một loại nấm (nấm trường sinh) mà người Nhật Bản gọi là Kompucha, người Nga gọi là Kargasok.
Theo ThS.BS Nguyễn Thị Hằng
(Học viện Y dược học Cổ truyền Việt Nam)
- Khoa học & Đời sống

Trẻ bị táo bón kéo dài, coi chừng bất thường ở ruột

Táo bón kéo dài ở trẻ có thể là biểu hiện của bệnh phình đại tràng bẩm sinh. Để khắc phục, bác sĩ phải cắt bỏ đoạn ruột bệnh lý.

Ảnh minh họa
Bí đại tiện kéo dài còn được gọi là táo bón. Đây là triệu chứng rất thường gặp ở trẻ em. Bác sĩ chia triệu chứng này ra hai loại khác nhau: táo bón cơ năng và táo bón bệnh lý.
Theo Trưởng khoa Ngoại BV Nhi đồng 1 Đào Trung Hiếu, nếu trẻ thỉnh thoảng mới khó đi ngoài và tự khỏi trong vài ngày thì đó là táo bón cơ năng, xuất hiện do sữa, thức ăn hay một lý do tạm thời nào đó.
 
Còn nếu trẻ có triệu chứng táo kéo dài 3 tháng trở lên, mỗi lần đi ngoài trẻ rất đau đớn thì đó là dấu hiệu của táo bón bệnh lý, cần phải được điều trị.
 
Đại tiện (hay đi ngoài) là một phản xạ bình thường của đường tiêu hóa giúp cơ thể loại bỏ chất cặn bã ra khỏi cơ thể.
 
Để hoạt động này bình thường, cần có sự tham gia của nhiều yếu tố như phản xạ thần kinh, nhu động ruột và tính chất phân. Nếu một trong các yếu tố này trục trặc, trẻ sẽ bị táo bón kinh niên. Nguyên nhân thường gặp nhất là bệnh phình đại tràng bẩm sinh.
Phình đại tràng xuất hiện do nhu động ruột ở đại tràng kém, phân ứ động lâu ngày trong lòng ruột làm đại tràng giãn rất to. Sau đó, khối phân này khô cứng và bịt chặt ngay trên lỗ hậu môn làm trẻ không thể nào đại tiện được. Tình trạng này sẽ không còn nếu đoạn ruột giãn to bệnh lý bị cắt bỏ để tái lập lại lưu thông ruột bình thường, BS Hiếu giải thích.
Cũng theo BS Hiếu, trước đây, quá trình điều trị phình đại tràng rất phức tạp. Bệnh nhi phải trải qua ít nhất ba lần phẫu thuật mở ổ bụng để hoàn thành quá trình điều trị này. Và trẻ phải trên 10 kg mới được chọn để tiến hành điều trị. Nhưng hiện nay, bác sĩ đã áp dụng kỹ thuật phẫu thuật cắt bỏ đoạn ruột giãn to bệnh lý qua đường hậu môn.
Với phương pháp này, bệnh nhi không bị phẫu thuật mở ổ bụng, trẻ chỉ chịu phẫu thuật một lần. Do đó, tuổi phẫu thuật của trẻ được hạ thấp tối đa, chưa đầy tháng cũng thực hiện được. Trong gần 800 ca mổ kiểu này cắt tại BV Nhi đồng 1, bệnh nhi nhỏ nhất mới 15 ngày tuổi.
Tuy nhiên, với biện pháp mới, bác sĩ không thể cắt được những đoạn ruột bệnh lý quá dài (lúc đó cần kết hợp với đường mổ ở bụng, nhưng cũng chỉ mổ một lần duy nhất).
Bác sĩ cảnh báo, mắc phải bệnh phình đại tràng bẩm sinh, trẻ có thể bị sa trực tràng khi cố rặn để đi ngoài, hoặc bị rách hậu môn, viêm nhiễm từ vết rách. Trẻ dễ có tâm lý sợ ăn uống vì sợ phải đi vệ sinh và đây là một nguyên nhân gây suy dinh dưỡng...
 
Do đó, khi trẻ có các triệu chứng như bị đau bụng dưới, phân cứng như sỏi, có máu khi đi ngoài..., nên đưa đến bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị đúng phương pháp.. Tuyệt đối không nên tự ý cho trẻ uống thuốc nhuận tràng vì sẽ làm rối loạn hệ tiêu hóa.
Theo Mỹ Lan - Gia đình & Xã hội

Những điều nên biết về ung thư dạ dày

Cũng giống như các bệnh ung thư khác, ung thư dạ dày thường biểu hiện mơ hồ, không rõ nét, có khi lẫn lộn với nhiều loại bệnh khác.

Dạ dày là đoạn phình to của ống tiêu hóa, đầu trên tiếp nối với thực quản qua tâm vị, đầu dưới tiếp nối với ruột non qua tá tràng.
 
Mặt trong dạ dày phủ một lớp tế bào niêm mạc, khi lớp niêm mạc này bị tổn thương, phát triển vô tổ chức tạo thành các khối u ác tính, đó chính là bệnh ung thư dạ dày.
Các dấu hiệu của ung thư dạ dày
Cũng giống như các bệnh ung thư nói chung, ung thư dạ dày thường biểu hiện mơ hồ, không rõ nét, có khi lẫn lộn với nhiều loại bệnh khác.
Ban đầu người bệnh thường mệt mỏi, chán ăn. Khi ăn vào thấy ậm ạch khó tiêu, đầy bụng. Đặc biệt, người bệnh cảm thấy khó chịu vùng trên rốn, dưới mũi ức, có thể đau âm ỉ, nóng rát mơ hồ. Hoặc tự nhiên thấy người xanh xao, đặc biệt nhất là cơ thể gầy sút nhiều, có thể tới 5 kg một tháng.
Khi bệnh đã phát triển, cơ thể gầy sút nhanh, đau vùng trên rốn, ăn không tiêu, thiếu máu da xanh.
Ở giai đoạn bệnh đã muộn, có thể sờ thấy khối u vùng trên rốn, ăn vào nôn ra, cơ thể suy kiệt, nổi hạch thượng đòn, bụng có nước cổ trướng.
Những người nào hay mắc ung thư dạ dày?
Những người trên 50 tuổi mắc nhiều hơn những người trẻ tuổi. Tuổi càng cao càng nhiều người mắc ung thư dạ dày. Người trẻ tuổi dưới 40 ít mắc ung thư dạ dày hơn nhưng nếu mắc thì rất nguy hiểm, nhanh tái phát và di căn, tiên lượng thường xấu hơn, thời gian sống thêm sau điều trị ngắn.
Những người bị viêm loét dạ dày mãn tính, có nhiễm trùng vi khuẩn HP trong ổ loét, nhất là các viêm loét thể teo đét có thể bị ung thư dạ dạy với tần suất cao hơn.
Những người hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia dễ có nguy cơ mắc ung thư dạ dày cao hơn. Thuốc lá và rượu bia làm cho tế bào niêm mạc dạ dày phải chịu đựng nhiễm độc kéo dài gây đột biến gen và có thể gây ung thư.
Những người có các khối u lành tính (gọi là các polip) có thể bị ung thư dạ dày.
Những người có thói quen ăn uống kiểu phương tây như ăn nhiều thịt nướng cháy, củ quả muối; những người béo phì; những người có bố mẹ đẻ, anh chị em ruột mắc ung thư dạ dày cũng có nguy cơ mắc cao hơn.

Phẫu thuật cắt bỏ khối u dạ dày
Làm thế nào để chẩn đoán ung thư dạ dày?
Biện pháp quan trong nhất chẩn đoán bệnh ung thư dạ dày là tiến hành nội soi ống mềm dạ dày, qua đó quan sát toàn bộ niêm mạc phủ thành dạ dày, phát hiện thấy các tổn thương loét, sùi, thâm nhiễm.
 
Sau đó dùng kìm, cắt một mảnh nhỏ tổn thương gọi là sinh thiết. Đem mảnh nhỏ khối u cắt được qua nội soi, đúc nến rồi cắt mỏng thành các tiêu bản, nhuộm soi dưới kính hiển vi để tìm các tế bào ung thư.
Để chẩn đoán xem ung thư dạ dày đã di căn hay chưa, người ta chụp phổi, siêu âm bụng hoặc chụp cắt lớp. Nếu thấy các khối u mới ở phổi, gan hoặc hạch thì chứng tỏ ung thư dạ dày đã di căn.
Ung thư dại dày có 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: ung thư còn sớm, khối u chỉ phát triển hết 1 phần thành dạ dày, giai đoạn 2: ung thư đã phát triển hết toàn bộ thành dại dày, Giai đoạn 3: giai đoạn muộn, ung thư đã di căn hạch, giai đoạn 4: giai đoạn cuối: ung thư đã di căn xa đến gan, phổi, hạch thượng đòn, xương…
Chữa ung thư dạ dày như thế nào?
Chữa ung thư dạ dày chủ yếu bằng phương pháp mổ cắt đoạn dạ dày có chứa khối u và nạo vét kỹ các hạch bạch huyết của dạ dày. Nhờ có tiến bộ của phẫu thuật mà tỷ lệ bệnh nhân sống sau mổ đang tăng lên.
 
Khi khối u đã lớn, xâm lấn rộng không thể cắt bỏ gây hẹp môn vị làm cho bệnh nhân không ăn được thì các bác sĩ sẽ mổ nối dạ dày với ruột để thức ăn lưu thông. Ngày nay nhờ các tiến bộ, mổ dạ dày có thể mổ bằng phương pháp nội soi.
Điều trị hóa chất sau mổ cũng góp phần cải thiện khả năng sống thêm sau mổ của ung thư dạ dày.
Điều trị bằng tia xạ hiện nay không áp dụng cho ung thư dạ dày.
Khi có các dấu hiệu nghi ngờ nên đến khám tại các cơ sở y tế có khả năng soi dạ dày. Các bệnh viện tuyến tỉnh có khả năng mổ cắt ung thư dạ dày.
 
Các bệnh viện chuyên khoa tuyến trung ương điều trị ung thư mang tính chất bài bản, có hệ thống và kết hợp phẫu thuật với điều trị hóa chất rất tin cậy, đạt trình độ ngang với các nước trong khu vực.
 

Theo TS.BS-CK2 Nguyễn Quang Thái - Sức khỏe & Đời sống

Dễ viêm ruột khi lạm dụng kháng sinh

Một nghiên cứu mới đây cho thấy những người được kê đơn một lượng lớn kháng sinh tăng nguy cơ bị viêm ruột (IBD).

Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng cho thấy kháng sinh có thể ảnh hưởng tới các vi khuẩn đường ruột.
 
  
 
Các nghiên cứu trước đây đã liên kết giữa việc sử dụng kháng sinh và IBD, bao gồm bệnh Crohn và viêm loét đại tràng.
 
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học Canada phát hiện ra rằng 12% số người có chẩn đoán mắc 2 bệnh trên được kê đơn ≥3 loại kháng sinh 2 năm trước đó so với 7% ở những người không bị bệnh này. Sự khác biệt này vẫn giữ nguyên trong thời gian 5 năm.

Nói một cách khác, nếu kháng sinh là nguyên nhân chính gây ra khác biệt này thì cứ 20 người được kê đơn ≥ 3 kháng sinh thì sẽ có thêm một trường hợp IBD.

Khi các nhà nghiên cứu xem xét các yếu tố khác, họ thấy rằng những người được kê đơn gồm nhiều kháng sinh dẽ bị bệnh Crohn hơn 50% trong vòng từ 2 đến 5 năm.

Theo Quỹ về bệnh Crohn và viêm ruột, ước tính có 1,4 triệu người Mỹ bị IBD, với khoảng 30.000 trường hợp mắc mới/năm.

Bệnh Crohn và viêm loét đại trạng - 2 dạng chính của IBD - gây viêm mãn tính ở ruột, kéo theo các triệu chứng như đau bụng, tiêu chảy và sụt cân.

Còn chưa rõ nguyên nhân gây IBD, song một số nhà khoa học cho rằng nguyên nhân có thể là do hệ miễn dịch hoạt động quá mức trước virus hoặc vi khuẩn trong ruột.

Theo Anh Khôi - Dân trí/ Reuters

Món ăn dành cho người bệnh xơ gan báng bụng

Xơ gan là bệnh gan mạn tính do tác động lâu dài hoặc lặp lại của một hay nhiều nguyên nhân gây ra thương tổn gan trên diện rộng.

Do bị hoại tử trên diện rộng, tế bào gan khó có thể tái sinh nên gan dần dần bị xơ.

Biểu hiện: người bệnh chán ăn, người mệt mỏi, đau vùng bụng trên, nôn ọe, đại tiện lỏng, gan to và khô, tĩnh mạch cửa nổi, sắc mặt tối, võng mạc vàng, nổi các nốt mẩn chằng chịt. Thời kỳ cuối bị xuất huyết tiêu hóa, hôn mê...

Về chế độ dinh dưỡng người bị xơ gan thời kỳ đầu có thể ăn uống những chất có độ đạm cao để vừa thúc đẩy tế bào gan tái sinh, bảo vệ gan lại vừa có thể nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể và tăng cường khả năng chống bệnh.

Nhưng thời kỳ cuối, nếu kèm thêm triệu chứng hôn mê thì phải giảm thức ăn có độ đạm cao mà ăn các thức ăn có đường là chính, đồng thời bổ sung lượng vitamin thích đáng. Không ăn các chất kích thích, chất cay nóng, thực phẩm đóng hộp có chứa phụ gia, thực phẩm ô nhiễm, dư lượng hóa chất bảo vệ...
 Canh gà ngũ vị tử

Sau đây xin giới thiệu một số món ăn - bài thuốc từ thịt gà dành cho người xơ gan báng bụng (cổ trướng) để bạn đọc tham khảo và áp dụng.

Đường đỏ, gạo lứt hấp gà vàng: Đường đỏ 150g, gạo lứt 150g, gà vàng 1 con (500-700g), gừng, hành, tỏi mỗi thứ 5g. Gà làm sạch, bỏ ruột, chân, gạo xay thành bột.

Nhúng gà vào nước sôi cho hết máu rồi cho vào nồi hấp, cho gừng, hành, muối, đường đỏ trộn đều với bột gạo nhét vào bụng gà, đổ khỏang 300ml nước vào nồi rồi bắc lên bếp đun to lửa đến sôi thì hạ lửa đun sôi tiếp khoảng 1 giờ là được. Ăn ngày 1 lần khoảng 50g thịt gà, còn nước cháo ăn tùy ý. Tác dụng: bổ khí huyết, kiện gan tỳ, chống báng bụng.

Tam thất, uất kim hấp với gà đen: tam thất 6g, uất kim 9g, gà đen 1 con (500g), rượu 10g, gừng, hành, muối, tỏi. Tam thất thái nhỏ như hạt đậu; uất kim thái lát; gà làm sạch bỏ nội tạng, chân; tỏi bóc vỏ thái mỏng; hành cắt ngắn.

Xát muối rượu lên con gà, cho tam thất, uất kim vào bụng gà, đặt vào nồi cho gừng, hành, đổ 300ml nước rồi đun trong 1 giờ là được. Ăn cả nước lẫn cái. Tác dụng bổ khí huyết, tan máu ứ, tiêu báng.

Canh đông trùng hạ thảo, sâm tây với thịt gà: sâm tây 20g, đông trùng hạ thảo 15g, gà con 1 con, gừng, hành, muối đều 5g. Sâm tây thái lát; đông trùng hạ thảo rửa sạch ngâm vào rượu; gà làm sạch bỏ nội tạng, chân; gừng đập lát; hành cắt ngắn.

Cho sâm, trùng thảo vào bụng gà, cho gia vị và đổ 1000ml đem đun sôi khỏang 1 giờ. Ngày ăn 2 lần, mỗi lần ăn 50g thịt gà; sâm, trùng thảo và canh ăn tùy ý. Tác dụng: bổ gan thận, dùng cho người xơ gan.

Canh ngũ vị tử với gà: ngũ vị tử 10g, thịt gà 200g, cần tây 200g, nấm 30g, rượu gạo 5ml, gừng, hành, muối, tỏi, dầu ăn đều 5g. Ngũ vị tử rửa sạch, thịt gà rửa sạch thái miếng, cần cắt khúc, nấm rửa sạch cắt bỏ cuống thái nhỏ, gừng đập lát.

Hành tỏi bóc vỏ thái nhỏ, phi gừng hành tỏi với dầu cho thơm rồi đổ thịt gà vào đảo lên sau đó cho cần tây, nấm, ngũ vị tử, muối và 300ml nước vào đun sôi rồi hạ lửa đun khỏang 30 – 40 phút nữa là được. Ngày ăn 1 lần, mỗi lần 50g thịt gà, cần và nấm ăn tùy ý.

Tác dụng: an thần,  bổ khí huyết, dùng cho người xơ gan kèm theo thần kinh suy nhược.Người xơ gan cũng nên dùng một trong các thứ nước sau thay nước uống:

Trà ngũ vị tử táo đỏ

Ngũ vị tử 10g, táo đỏ 5 quả, đường phèn 20g. Ngũ vị tử rửa sạch, táo đỏ bỏ vỏ, đường giã nhỏ.  Cho tất cả vào nồi cùng 300ml nước đun sôi khoảng 20 - 30 phút là được. Uống thay nước hằng ngày. Tác dụng: bổ dưỡng gan thận, ích khí, dùng cho người xơ gan, men gan tăng cao.

Chè ngũ vị tử, long nhãn và sâm tây: ngũ vị tử, sâm tây, long nhãn đều 5g, đường phèn 20g. Ngũ vị tử rửa sạch, sâm tây làm mềm rồi thát lát, đường giã nhỏ.
 
Cho tất cả vào nồi  cùng 300ml nước đun chừng 20-30 phút là được. Uống thay nước hằng ngày. Công dụng: ích khí, dưỡng tâm, an thần, bổ ích gan thận. Dùng cho người xơ gan, mất ngủ, tự ra mồ hôi.
Theo BS. Nguyễn Thị Phương Hoa - Sức Khỏe & Đời Sống

Cách nhận biết và phòng ngừa sỏi mật

80% sỏi túi mật không có triệu chứng hoặc có triệu chứng rất nhẹ. 20% sỏi túi mật có triệu chứng biểu hiện các cơn đau dữ dội ở hạ sườn phải.

Nguyên nhân của những cơn đau quặn hạ sườn phải buộc bệnh nhân phải đi cấp cứu thường do sỏi mật gây ra. Trong cơ thể, sỏi có thể gặp ở nhiều cơ quan, nhưng nhiều nhất là trong đường mật.
 
Rất khó nói chính xác tỷ lệ người bị sỏi mật vì đa số bệnh nhân sỏi mật không có triệu chứng. Sỏi mật có thể chỉ ở túi mật (gặp nhiều ở các nước châu Âu), ở đường mật hoặc đồng thời có ở cả hai nơi. Ở Việt Nam thường hay gặp sỏi đường mật.

Sỏi mật tạo ra từ đâu?

Sỏi mật được tạo ra từ những thành phần của mật như sắc tố mật, cholesterol, acid béo. Theo hình dạng bên ngoài và thành phần cấu tạo sỏi chia ra 2 loại chính: sỏi cholesterol và sỏi sắc tố.

Sỏi cholesterol: Cholesterol tan được trong mật nhờ muối mật và lecithidine. Khi tỷ lệ muối mật và lecithidine quá ít, không đủ khả năng hòa tan hết cholesterol thì cholesterol sẽ kết tủa và vón cục lại tạo thành sỏi.

Sỏi sắc tố: Thường xảy ra khi đường dẫn mật trong và ngoài gan bị viêm nhiễm, mật bị ứ đọng lại làm cho sắc tố mật và canxi bám vào thành đường mật đã bị tổn thương kết tủa tạo thành bùn mật, sỏi mật. Xác giun và trứng giun cũng có thể là điều kiện để sắc tố mật, canxi bám vào tạo sỏi. Sỏi sắc tố thường có màu đen hoặc nâu.

Sỏi túi mật

Dấu hiệu nhận biết

Tùy sỏi túi mật hay sỏi đường mật mà có các biểu hiện trên lâm sàng cũng khác nhau.

Sỏi túi mật: 80% sỏi túi mật không có triệu chứng hoặc có triệu chứng nhưng rất nhẹ. 20% sỏi túi mật có triệu chứng biểu hiện bằng các cơn đau dữ dội ở hạ sườn phải (cơn đau quặn gan).
 
Đây là triệu chứng nổi bật của sỏi túi mật. Cơn đau xuất hiện do sỏi di chuyển đến ống cổ túi mật, gây tắc tạm thời và do căng giãn dẫn đến thiếu máu gây ra cơn đau. 

Các cơn đau thường hay xảy ra sau một bữa ăn nhiều mỡ, rượu hoặc trong thời kỳ trước khi hành kinh hoặc khi quá căng thẳng thần kinh.
 
Cơn đau thường xuất hiện vào buổi tối hoặc vào ban đêm, cơn đau liên tục, tăng dần lên đôi khi đi kèm theo các triệu chứng như rối loạn nhịp thở, ngoại tâm thu, chậm nhịp tim. Cơn đau có thể kéo dài vài phút đến vài giờ. Nếu cơn đau kéo dài trên 6 giờ có thể có khả năng có biến chứng viêm túi mật. 

Chẩn đoán sỏi túi mật đơn giản chỉ cần siêu âm là có thể phát hiện được sỏi. Viêm túi mật cấp - một biến chứng thường gặp của sỏi túi mật (90%).
 
Triệu chứng của viêm túi mật cấp lúc khởi đầu cũng giống như một cơn đau quặn gan nhưng kéo dài hơn, mức độ nặng hơn và dùng thuốc giảm đau không đỡ, bệnh nhân không dám hít thở sâu, đau có thể lan lên vai phải.
 
Ngoài ra, bệnh nhân còn có các triệu chứng khác như co cứng cơ bụng, buồn nôn, trướng hơi. 20% bệnh nhân bị viêm túi mật cấp có thể có biến chứng hoại tử thủng túi mật và viêm phúc mạc phải can thiệp ngoại khoa cấp cứu.


Điều trị sỏi túi mật chưa có biến chứng chủ yếu bằng nội khoa. Điều trị cơn đau quặn gan bằng thuốc chống co thắt và thuốc giảm đau. Điều trị loại bỏ sỏi bằng các thuốc làm tan sỏi chỉ có hiệu quả đối với sỏi cholesterol có kích thước nhỏ hơn 1cm.
 
Các thuốc được dùng làm tan sỏi là các thuốc có tác dụng làm giảm độ bão hòa của cholesterol, làm cholesterol không kết tủa được. Cắt bỏ túi mật là phương pháp lý tưởng nhất để điều trị sỏi túi mật đã có biến chứng hoặc đau nhiều, tái phát liên tục.

Sỏi đường mật: Sỏi nằm trong ống mật chủ và các đường mật trong gan. Khi sỏi nhỏ và không gây tắc mật, bệnh nhân có thể hoàn toàn không có triệu chứng nhưng khi sỏi lớn gây tắc hẹp đường mật có thể gây ra các triệu chứng xuất hiện theo trình tự: đau - sốt - vàng da.
 
Ngoài những biến chứng cấp tính như viêm đường mật, nhiễm trùng đường mật, áp-xe đường mật, ứ mật lâu dài sẽ dẫn đến xơ gan ứ mật thứ phát. Trên 50% trường hợp viêm tụy cấp có liên quan đến sỏi ống mật chủ và tiên lượng viêm tụy trong những trường hợp này thường rất nặng.

Chẩn đoán sỏi đường mật bằng siêu âm hoặc chụp mật tụy ngược dòng.

Chế độ ăn uống và cách phòng ngừa sỏi mật

Giảm mỡ và các chất béo. Hạn chế ăn các thực phẩm có nhiều cholesterol như phủ tạng động vật nhưng bệnh nhân vẫn có thể ăn trứng (ăn ít) vì trứng không gây đau thắt mật lại tạo ra sự kích thích cần thiết cho túi mật kịp thời bài tiết dịch mật ngăn ngừa việc ứ đọng dịch, tránh hình thành sỏi.
 
Tăng đạm để chống thoái hóa mỡ tế bào gan vì cholin và methionin có trong chất đạm còn được gọi là những chất tiêu mỡ có tác dụng chuyển hóa các chất béo từ gan đến kho dự trữ mỡ dưới da.
 
Ăn thức ăn giàu đường bột, glucid dễ tiêu lại không ảnh hưởng đến mật, nhiều chất xơ giúp tiêu hóa tốt. Ăn nhiều rau quả tươi giàu vitamin B, C để tăng chuyển hóa mỡ và bột.

Phòng ngừa sỏi mật: Thực hiện chế độ ăn giảm cholesterol và ngăn chặn nhiễm khuẩn đường ruột nhất là do ký sinh trùng bằng vệ sinh ăn uống và tẩy giun định kỳ.          

  Theo BS-CK2 Mai Minh HuêSức khỏe & Đời sống

Ho ra máu do xơ gan có chữa được không?

Bố tôi 52 tuổi, vừa qua tự nhiên ho ra máu rất nhiều phải đi cấp cứu. Bác sĩ cho biết bố tôi bị giãn tĩnh mạch thực quản do xơ gan.

Xin hỏi bệnh này có chữa được không?
(Phạm Văn Đoàn - Hà Nội)

Trả lời:
 
Giãn tĩnh mạch thực quản là các tĩnh mạch dưới niêm mạc giãn to phát triển ở các bệnh nhân vốn bị tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
 
Đây là nguyên nhân thông thường nhất gây xuất huyết dạ dày - ruột và thực quản. Các nguyên nhân của tăng áp lực tĩnh mạch cửa có nhiều trong đó các bệnh do gan như xơ gan, teo gan, gan tim (tâm phế mãn)…
 
Bệnh nhân có các biểu hiện nôn tự phát máu đỏ tươi hoặc màu bã cà phê kèm theo đại tiện ra máu đen hoặc máu tươi. Trong một số trường hợp có thể trước đó có nôn khan hoặc khó tiêu nên thường quy cho viêm dạ dày do nghiện rượu.
 
Mặc dù phần lớn các bệnh nhân bị chảy máu giãn tĩnh mạch thực quản có những dấu hiệu của bệnh gan (như ban đỏ lòng bàn tay, u mạch nhện, chứng vú to của nam, yếu cơ, lách to, cổ trướng, vàng da…).
 
Song có 20 - 30% bệnh nhân gan mạn tính bị xuất huyết da nguồn gốc ngoài giãn tĩnh mạch thực quản. Về xử lý: xuất huyết giãn tĩnh mạch có thể đe doạ tính mạng vì vậy cần được cấp cứu kịp thời tại bệnh viện bằng bồi phụ các sản phẩm máu là thiết yếu.
 
Với bệnh nhân xơ gan, có rối loạn đông máu phải dùng huyết tương tươi, vitamin K nếu đang có xuất huyết. Phối hợp các thuốc giảm áp lực tĩnh mạch cửa (vasopressin, nitroglyxerin) và kháng sinh phòng nhiễm khuẩn theo chỉ định của thầy thuốc.
 
Nếu điều trị nội khoa không kết quả phải can thiệp ngoại khoa (chèn ống thông có bóng lên tĩnh mạch đang chảy máu làm xơ cứng vùng vỡ mạch qua nội soi hoặc phẫu thuật nối tắt hệ cửa chủ; ghép gan là phương pháp giải quyết triệt để.
Theo BS Trần Mạnh Toàn - Sức khỏe & Đời sống

Món ăn chữa viêm loét dạ dày - tá tràng

Loét dạ dày - hành tá tràng là bệnh mạn tính, tái phát mang tính chu kỳ, hay gặp ở thanh niên và trung niên.

Theo y học cổ truyền, loét dạ dày - hành tá tràng thuộc bệnh danh vị quản thống. Ngoài việc dùng thuốc, xin giới thiệu với bạn đọc các món ăn sau đây:
Món ăn thuốc từ cá diếc:
 
Cá diếc tươi 250g, gừng tươi 30g, quất bì 10g, hạt tiêu 3g. Cá đánh vẩy, bóc mang, bỏ nội tạng và rửa sạch; gừng rửa sạch, thái phiến, quất bì thái chỉ. Dùng vải lụa gói gừng, quất bì và hạt tiêu rồi nhét vào bụng cá, cho nước vừa đủ, hầm nhỏ lửa, ăn cá, uống nước khi đói bụng.
 
Cá diếc tốt cho người bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng
Dùng chữa trị đau bụng thành cơn, sợ lạnh, thích ấm nóng (nếu chườm nóng vùng thượng vị hoặc uống nước nóng thì đỡ đau); không khát, nếu khát thì thích uống nước nóng; rêu lưỡi trắng.
Hoặc cá diếc to 2 con, sa nhân 6g, trần bì 8g, tiểu hồi hương 6g, hạt tiêu, hành, gừng, tỏi, muối ăn vừa đủ, dầu lạc 1.000g. Cá đánh vảy, bỏ mang và nội tạng, rửa sạch; hạt tiêu giã nhỏ, trần bì thái chỉ, gừng thái phiến, hành cắt đoạn, sa nhân đập dập... Tất cả trộn đều rồi cho vào bụng cá.
 
Đổ dầu vào chảo cho ngập cá rồi rán chín, sau đó lấy cá ra, dùng nồi khác phi hành tỏi, cho thêm một chút nước rồi rim cá nhỏ lửa với gia vị cho ngấm kỹ để ăn.
Nước uống mạch nha: Mạch nha sống 30g (rửa sạch), thanh bì 10g (thái phiến) sắc kỹ cả hai trong 25 phút rồi lọc bỏ bã, lấy nước, chia uống vài lần trong ngày khi còn ấm.
Nước phật thủ: Phật thủ 15g rửa sạch, thái vụn, hãm với nước sôi trong bình kín rồi hòa thêm một chút đường phèn, uống thay trà trong ngày. Cũng có thể dùng phật thủ 20g thái vụn, sắc lấy nước rồi cho 100g gạo tẻ nấu thành cháo, chế thêm một chút đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày.
Dạ dày lợn: Rễ cây quất vàng 30g rửa sạch, thái đoạn, dạ dày lợn 150g thái miếng, hầm cả hai thứ cho chín rồi chế thêm gia vị, ăn dạ dày, uống nước hầm.
Dạ dày lợn hầm hạt sen
Dùng chữa trị vùng thượng vị đau trướng, lan ra hai bên mạng sườn, không thích xoa nắn, nếu ấn vào thì đau tăng, buồn nôn, ợ hơi, ợ chua, đầy hơi, ăn khó tiêu, nếu ợ hơi hoặc trung tiện được thì dễ chịu, đại tiện không thông khoái.
Dạ dày lợn - hạt sen: hạt sen bỏ tâm 40 hạt, dạ dày lợn 1 cái, gia vị và dầu thực vật vừa đủ. Dạ dày làm sạch rồi cho hạt sen vào khâu kín, đem hầm nhừ, sau đó thái chỉ, chế thêm gia vị, trộn lẫn hạt sen rồi ăn.
Dùng chữa trị vùng thượng vị đau âm ỉ suốt ngày, thích chườm nóng và xoa nắn, có cảm giác lạnh bụng, đầy hơi, ăn kém, chậm tiêu, có thể buồn nôn và nôn ra nước trong, gầy sút, mệt mỏi, da, niêm mạc nhợt, đại tiện lỏng nát, tay chân lạnh.
Cháo thần khúc, mạch nha: Thần khúc 10 - 15g, sắc kỹ, lấy nước nấu với 100g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày. Mạch nha 10g rửa sạch, sao vàng, sơn tra 6g sao cháy, cả hai sắc kỹ trong 30 phút, bỏ bã lấy nước, hòa thêm 10g đường đỏ, chia uống vài lần trong ngày.
Cháo ý dĩ, hoài sơn: Hoài sơn 30g, ý dĩ 30g, hạt sen bỏ tâm 15g, đại táo 10 quả, gạo tẻ 50 - 100g. Tất cả cho vào nồi nấu thành cháo, hòa thêm chút đường trắng, chia ăn vài lần trong ngày khi bụng đói.
Dùng chữa trị: Thường do ăn uống thái quá, thức ăn đình trệ lâu ngày gây nên. Vùng thượng vị đầy trướng, tức nặng khó chịu, ợ hơi, chua, nôn ra thức ăn chưa tiêu, nôn được thì bụng đỡ đau, đại tiện không thông.
Theo Lương y Vũ Quốc Trung - Sức khỏe & Đời sống

Trị viêm đại tràng bằng Đông y

Bệnh đại tràng rất hay gặp ở người trung và cao tuổi. Trong y học cổ truyền có 3 chứng bệnh mạn tính, bệnh thường kéo dài, khó điều trị.

Dưới đây là bài thuốc người bệnh có thể tham khảo.
Chứng tỳ vị hư nhược: Đau bụng âm ỉ, đầy trướng, sôi bụng, chườm nóng đỡ đau. Người mệt mỏi, ăn kém chậm tiêu, đại tiện thường nát lỏng, chất lưỡi bệu có hằn răng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm nhược.
 
Các vị thuốc thường dùng là nhân sâm, bạch linh, bạch truật, cam thảo, sa nhân, trần bì, cát cánh, biển đậu, sơn dược, liên tử nhục, ý dĩ nhân.
 
Bệnh đại tràng rất hay gặp ở người trung và cao tuổi
 
Chứng Thận dương hư suy: Trước khi trời sáng xuất hiện đau bụng vùng quanh rốn, sôi bụng rồi đại tiện lỏng (ngũ canh tả), sau đại tiện thì giảm đau. Cơ thể lạnh, chân tay lạnh, lưng gối mỏi yếu, lưỡi nhạt râu trắng, mạch trầm tế.
 
Bài thuốc thường dùng là phá cố chỉ, nhục đậu khấu, ngô thù du, ngũ vị tử, phụ tử, bào khương.
Chứng can khí thừa tỳ: Đầy chứng mạng sườn, ợ hơi ăn ít, mỗi khi do uất ức phiền nộ, hoặc tinh thần căng thẳng, liền phát sinh đau bụng ỉa chảy, sôi bụng lan chuyển, luỡi hồng nhạt mạch huyền. Các vị thuốc thường dùng là bạch thược, bạch truật, phòng phong.
Các vị thuốc trên tùy vào cơ thể và bệnh tật mỗi người mà có liều lượng khác nhau, vì vậy bệnh nhân nên thăm khám để được kê đơn đúng liều và sắc thường xuyên ngày uống 3 lần.      
Theo ThS Nguyễn Thị Hằng - Khoa học và Đời sống

Uống nhiều cà phê sữa dễ hại gan

Cà phê sữa hay cà phê sữa đá là món "nghiền" của nhiều người mà không biết rằng nó rất độc hại với gan và gây nhiều bệnh lý cho cơ thể.

GS.TSKH Bùi Quốc Châu, giám đốc Trung tâm Diện chẩn liệu pháp cho biết, theo dõi trên nhiều bệnh nhân thì thấy có mối liên quan giữa bệnh sỏi túi mật, bệnh viêm gan vàng da vàng mắt, viêm gan siêu vi, nặng hơn là xơ gan với món cà phê sữa, cùng với cà phê sữa đá và món trứng sữa.

Trước năm 1975, có một cuốn sách viết về dinh dưỡng của DS Trương Kế An, có đoạn viết rằng: "Cà phê sữa là một thức uống rất khó tiêu đối với gan".
 
Hợp chất cà phê và sữa phá hoại hoạt động của gan khiến gan không xử lý và phân hóa nổi nên tạo cho người uống cảm giác no giả, không thấy đói, chán ăn, nghĩa là rất giống triệu chứng của bệnh đau gan. 
 
Cà phê sữa tạo cho người uống một cảm giác no giả, chán ăn. Ảnh minh họa 
BS Phùng Hoàng Nam, Bệnh viện Nhi TƯ cho biết, chất cafein có tác dụng kích thích rõ rệt đối với hệ thống thần kinh nên sử dụng thường xuyên sẽ không chỉ gây nghiện, gây ngộ độc, dễ bị kích thích, bồn chồn, sợ hãi.

Cơ chế gây độc là chất cafein hấp thu rất nhanh và phân bố toàn cơ thể, đặc biệt là ở gan thành chất hoạt tính là methylxanthine có tác dụng dược lý trên não gây sảng khoái, làm tăng sự tỉnh táo và tăng hoạt tính tâm thần.

Ở người lớn, tác dụng của cafein kéo dài  6 - 12 giờ với thời gian bán hủy là 6 - 8 giờ. Ở trẻ nhỏ, thời gian chuyển hóa chậm hơn tùy theo lứa tuổi và thời gian bán hủy kéo dài hơn 24 giờ. Cơ thể nhậy cảm hơn với cafein nên cũng dễ nhiễm độc.
Đặc biệt hơn nữa, theo GS.TSKH Châu là thói quen uống cà phê sữa ở Việt Nam không giống như nước ngoài là uống với sữa gầy hoặc sữa tươi... mà uống với sữa đặc có đường. Yêu cầu bảo quản sữa đặc là không quá 10oC và hạn sữa không quá 2 năm.

Tuy nhiên, dù được bảo quản kỹ thì sau 12 tháng thường là sữa có hiện tượng sẫm màu, đặc hơn, có khi đóng thành bánh và khi pha nước nóng sữa không tan hoàn toàn vì có cặn, phốt pho, canxi...

Cà phê có độc, sữa khó tiêu cộng với đá lạnh gây xáo trộn nhiệt độ cơ thể một cách vô ích và làm cơ thể càng lúc càng suy yếu, đặc biệt mang nặng sức cản đối với các hoạt động của gan, khiến gan phải gồng mình ra xử lý, dẫn tới bị bệnh. Vì vậy, các chuyên gia đều khuyên, nên hạn chế uống cà phê đá với sữa đặc.
Theo Nhật Hà - Khoa học và Đời sống

Sa dạ dày và cách ăn uống

Bệnh xảy ra có thể do sự thay đổi khí hậu, lao động quá sức, ăn uống không điều độ.

Bệnh xảy ra có thể do sự thay đổi khí hậu, lao động quá sức, ăn uống không điều độ.
 
Tính chất của cơn đau trong bệnh này tương tự như đau kiểu đói bụng; cũng có thể xuất hiện tình trạng trướng bụng, ợ hơi, đau thắt, các triệu chứng đi kèm là buồn nôn, nôn mửa, táo bón, khó tiêu. Khi nghiêm trọng có thể gây xuất huyết, nứt hậu môn.
 
Người bị chứng sa dạ dày thường có những biểu hiện như: đau bụng ở vùng trên với những đặc điểm đau có tính nhịp điệu, mỗi lần phát bệnh có thể kéo dài trong vài ngày hay vài tuần...
Sinh hoạt, ăn uống
Những người bị sa dạ dày cần thường xuyên chú trọng điều dưỡng - điều chỉnh lại giờ giấc sinh hoạt, có thời gian nghỉ ngơi, làm việc thích hợp, đảm bảo ngủ đủ giấc.
 
Nên dùng những loại thực phẩm ít xơ, mềm và dễ tiêu hóa. Tránh những thức ăn cứng, chiên xào và có tính kích thích như rượu, cà phê, trà, thực phẩm cay nồng. Nên ăn ít và chia thành nhiều bữa.
 
Bệnh này có thể điều trị bằng ăn uống các loại trái cây hoặc thuốc Đông y như dưới đây:
 
Ảnh minh họa
 
- Chuối trộn mật ong: Chuối tiêu 2 quả, táo tây 2 quả, mật ong 30 ml. Rửa sạch táo, chuối bỏ vỏ, xay nhuyễn, cho mật ong vào đảo đều, chia làm 2 lần dùng trong ngày.
- Nước củ sen, cam thảo: Củ sen 200g, cam thảo 3g, táo 2 quả, vị thuốc bạch thược 10g. Táo, củ sen rửa sạch, cắt nhỏ, ép thành nước, bạch thược và cam thảo cho vào nồi đất cùng 300 ml nước, nấu lấy nước. Trộn 2 loại nước với nhau khuấy đều để dùng, chia làm 2 lần dùng trong ngày.
- Cà rốt, rau cần: Cà rốt 400g, rau cần 200g, lá su hào 200g, táo 300g, mật ong 30 ml.
 
Rửa sạch tất cả nguyên liệu, để ráo nước, cắt nhỏ, cho vào máy, ép lấy nước. Nếu quá đậm đặc có thể cho thêm nước vào, nếu chất xơ trong nước quá nhiều có thể vớt bỏ bớt, sau đó cho mật ong vào trộn đều là dùng được. Chia làm hai lần dùng trong ngày.
 
Ngoài ra, trong Đông y cũng có bài thuốc dùng cho bệnh sa dạ dày, đó là bài gồm các vị: hoàng kỳ, đảng sâm (cùng 16g), bạch truật, đương quy (cùng 10g), trần bì, thăng ma, cam thảo (cùng 6g), sài hồ 4g.
 
Cách sắc (nấu) như sau: Nước đầu cho 3 chén nước sắc còn 1 chén, cho nước thuốc ra riêng; nước thứ 2 cho tiếp 3 chén, sắc còn nửa chén. Hòa hai nước lại, chia làm 3 lần trong ngày uống lúc no (sau khi ăn 30 phút). Một đợt uống liên tục 7-10 ngày.
Theo Lương y Quốc Trung - Thanh Niên

Trẻ em dưới 10 tuổi dễ bị lây vi khuẩn HP gây viêm dạ dày

Trẻ thường bị nhiễm từ cha mẹ hoặc từ trẻ khác. Vì vậy, việc giữ gìn vệ sinh trong ăn uống để tránh lây lan vi khuẩn rất quan trọng.

 

Sau 2 bé 3 tuổi và 1 bé 15 tháng tuổi, Khoa nhi BV Quận 1 lại mới điều trị cho bé Đ.N.K. Trinh (5 tuổi, nhà ở quận 2) cũng bị viêm dạ dày do vi khuẩn HP.

Suốt 2 tháng, bé Trinh bị đau bụng kèm theo ói nhiều lần trong ngày. Mẹ đưa bé đi khám bệnh nhiều nơi và được chẩn đoán rối loạn tiêu hóa, có dùng thuốc nhưng các triệu chứng không giảm.

Bé Trinh đến khám tại BV Quận 1 ngày 14/9, BS cho bé làm xét nghiệm tìm HP trong phân và có kết quả dương tính. Bác sĩ dặn dò mẹ bé cần cho bé kiêng các thức ăn chua cay, nước ngọt có ga, ăn uống đúng giờ, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi tiêu bằng xà phòng.

Viêm dạ dày do HP có thể xảy ra ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng bệnh nhân của vi khuẩn này đang ngày càng trẻ hóa. Ở các nước đang phát triển, trẻ em thường bị lây nhiễm trước khi lên 10 tuổi. Trẻ thường bị nhiễm từ các thành viên trong gia đình, các trẻ khác, qua thức ăn không hợp vệ sinh ở đường phố…

Để phòng ngừa vi khuẩn HP, các bác sĩ khuyến cáo:
- Nên bỏ phong tục nhai mớm cơm cho con, vì nếu người mẹ mắc bệnh viêm loét dạ dày do HP thì trong nước bọt có chứa vi khuẩn này.
- Cần vệ sinh sạch sẽ đồ dùng sinh hoạt, ăn uống
- Trong gia đình, nếu có người bị viêm dạ dày do HP phải điều trị triệt để, tránh lây bệnh cho trẻ qua đồ dùng trong sinh hoạt và ăn uống không hợp vệ sinh.

Ăn chung mâm có lây bệnh đau dạ dày do vi khuẩn HP?

Bởi vì nhiễm HP không có biểu hiện lâm sàng nên bạn không thể biết người đang ngồi chung mâm với mình mang vi khuẩn HP trong người hay không.


Để tìm lời giải đáp cho nỗi lo lắng chung của nhiều bạn đọc về căn bệnh đau dạ dày do HP, AloBacsi đã có cuộc trò chuyện với BS-CK1 Nguyễn Minh Thu - Trưởng khoa Liên chuyên khoa, Trung tâm y tế quận 11, TPHCM.

Thưa BS Nguyễn Minh Thu, hiện nay có rất nhiều bạn đọc của AloBacsi băn khoăn về việc làm sao phát hiện mình hoặc người thân nhiễm virus HP, BS có thể đưa ra những hướng dẫn về việc này không ạ?

Helicobacter pylori (gọi tắt là HP) là một loại vi khuẩn cư trú ở dạ dày hơn 50% dân số thế giới và là nguyên nhân chính dẫn đến loét dạ dày tá tràng, và ung thư dạ dày. Đây là một loại vi khuẩn cư trú ở dạ dày - một môi trường mà không một vi khuẩn đường ruột nào sống sót được.

Nếu viêm dạ dày (VDD) do HP thì triệu chứng cũng giống như VDD do nguyên nhân khác, nghĩa là bạn cũng đau bụng vùng trên rốn (còn gọi là thượng vị), đau có thể tăng sau bữa ăn hay chỉ có cảm giác đầy bụng, khó tiêu, có thể buồn nôn, hay nôn, nặng có thể nôn ra máu.

Muốn phát hiện mình có vi khuẩn HP hay không thì bạn phải làm xét nghiệm phát hiện HP. 
 
Hình ảnh viêm dạ dày do HP qua nội soi - Nguồn: internet
 
Vi khuẩn HP lây qua nguồn nào, thưa BS? Ăn uống chung mâm, mọi người dùng đũa riêng gắp vào đĩa thức ăn chung thì có lây được ?
 
HP được tìm thấy trong nguồn nước ngầm, nước giếng, nước thải chưa qua xử lý... Đường lây truyền chính vẫn là từ người qua người qua đường tiêu hóa, cụ thể:
 
 
- Đường phân - miệng: Mật độ vi khuẩn trong phân cao hơn khi người bệnh bị tiêu chảy hoặc sử dụng các thuốc làm tăng pH dạ dày. Vi khuẩn theo phân lây sang người khác do không rửa tay sạch sau khi đi tiêu và trước khi ăn, hay qua trung gian côn trùng như ruồi, gián... khi thức ăn không đậy kỹ.
 
 - Đường miệng - miệng: HP có trong nước bọt và cao răng. HP theo dịch tiết dạ dày qua đường nước bọt và lây lan qua nước bọt từ đồ dùng vệ sinh cá nhân, dùng chung chén bát đũa muỗng, hôn trực tiếp, mẹ nhai mớm cơm cho con ăn.
 
- Đường dạ dày - miệng: Vi khuẩn có thể lây lan từ người này sang người khác qua dịch tiết dạ dày khi sử dụng các ống nội soi dạ dày chưa được vô trùng tốt.
 
 
 
 
Khám bệnh Online - AloBacsi.vn

Nghệ đen hay nghệ vàng chữa đau dạ dày tốt hơn vậy

Làm sao để phân biệt nghệ đen và nghệ vàng, thành phần của mỗi loại và mùi vị của từng loại?

Chào AloBacsi,
Cho cháu hỏi làm sao để phân biệt nghệ đen và nghệ vàng, thành phần của mỗi loại và mùi vị màu sắc của từng loại? Loại nào chữa đau dạ dày tốt hơn vậy? Cháu cảm ơn rất nhiều!
 
(Văn Tuyến - Bắc Giang)
 
Ảnh minh họa
Trả lời:

Chào cháu,

Nghệ vàng, tên khoa học Curcuma longa, được dùng làm thuốc lợi mật, chữa viêm gan, vàng da, sỏi mật, viêm túi mật, đau dạ dày, huyết ứ sau khi sinh và làm hạ cholesterol máu, chảy máu cam, nôn ra máu...

Nghệ đen, còn gọi là nghệ xanh, nghệ tím, tên khoa học Curcuma zedoaria. Cây có hình dạng rất giống nghệ vàng, nhưng chỉ khác là lá nghệ đen có màu tím đậm ở gân chính, còn lá nghệ vàng thì xanh. Củ nghệ đen có chứa nhiều tinh dầu.

Nghệ đen có vị đắng, cay, mùi thơm hăng, tính ấm, tác dụng hành khí, thông huyết, tiêu thực, mạnh tì vị, kích thích tiêu hóa, tiêu viêm, tiêu xơ.

Nghệ đen thường được dùng để chữa ung thư cổ tử cung và âm hộ, ung thư da, đau bụng kinh, kinh không đều, ăn không tiêu, đầy bụng, nôn mửa nước chua, chữa các vết thâm tím trên da.

Như vậy để điều trị đau dạ dày nên dùng nghệ vàng tốt hơn.

Thân ái!
 
BS Chuyên khoa của AloBacsi